✍️Lập trình
-
CICD:
-
Cloud, webhook, API:
- Chỉ cho chạy tối đa 1 giây
- Chạy trên Node 22
- Dùng fibery-script-management để viết được trên IDE của mình
- Cung cấp 2 biến args và context
- When you get an entity object, by default, only the primitive fields and any to-one relations are included in the fields returned. If you want to get the collection fields (to-many relations) you have to query specifically for them.
- Collection
- Type với database là một. App với space là một
- GraphiQL
- Ký tự phi ASCII trong tên field hoặc database sẽ được transliterate sang tiếng Anh khi dùng GraphQL API
- Các API thường dùng cho PHP
- Facebook API
- me-accounts liệt kê tất cả các page mình quản lý
- Fb hạn chế rất nhiều API để tránh việc làm nhái page
- Build service object
- Bởi vì AES đã trở thành tiêu chuẩn rộng rãi, nên các CPU đã được thiết kế cho riêng nó để giảm thiểu việc chạy lỗi cũng như bị tấn công
- Khoá là một chuỗi bit, không phải là các ký tự ASCII
- Mã hoá từng khối ký tự một sẽ khó đoán hơn việc mã hoá từng ký tự một
- Hàm một chiều là hàm giúp sinh ra một bài toán khó giải từ lời giải của nó
- P là các bài toán giải được trong thời gian đa thức. NP là các bài toán kiểm tra lời giải được trong thời gian đa thức
- Độ an toàn của khoá bây giờ không nằm ở việc giữ bí mật của khoá, mà ở việc rất khó để giải mã
- Hệ mã đối xứng dùng chung khoá cho cả lúc mã hoá và giải mã. Hệ mã bất đối xứng có khoá để mã hoá và giải mã khác nhau
- Khoá là một chuỗi bit, không phải là các ký tự ASCII
- Khoá one-time pad không thể bị bẻ, nhưng khóa cần được chia sẻ trước, có độ dài tối thiểu bằng bản rõ và chỉ được dùng một lần
- Mã hoá từng khối ký tự một sẽ khó đoán hơn việc mã hoá từng ký tự một
- Phép thay thế tăng độ hỗn loạn. Phép hoán vị tăng độ khuếch tán
- Việc tạo ra hỗn loạn và khuếch tán giúp giảm khả năng bị dò ra khoá trong trường hợp một bản rõ đã bị lộ
- DES muốn an toàn thì phải chạy lâu
- Véc tơ khởi tạo (iv) dùng để đảm bảo những bản rõ giống nhau không tạo ra bản mã giống nhau
- Client là ứng dụng muốn truy cập vào dữ liệu của người dùng
- OAuth là cách để cấp quyền truy cập dữ liệu mà người dùng không phải cấp mật khẩu
- OAuth, access token
- OAuth định nghĩa cách token được truyền, JWT định nghĩa cách token được định dạng
- Client gửi token truy cập đến máy cấp quyền để được truy cập tài nguyên
- Khi token truy cập hết hạn, client gửi refresh token đến máy chủ cấp quyền để được cấp token truy cập mới
- Client nào có thông tin xác thực thì sẽ được nhận token truy cập từ máy chủ cấp quyền
- Một token truy cập có thể truy cập được một vài API với những quyền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định
- Auth không phải là xác thực (authenticate), mà là cấp phép (authorize)
- Thông tin xác thực (credential) bao gồm client ID và client secret
- Client ID là để máy cấp quyền biết client nào là client nào, còn client secret là để nó đảm bảo rằng client này chính là client đó
- Mật khẩu, vân tay, 2FA, SSO là những cách để người dùng xác thực (authentication)
- Việc kiểm tra xem người dùng được phép truy cập dữ liệu ở mức độ nào được gọi là cấp phép (authorization)
- Redirect URI là nơi máy xác thực trả xác thực
- ❓OAuth là cấp phép cho ai, token là cấp phép được làm cái gì
- Scope là những phạm vi của các dữ liệu mà ứng dụng được truy cập
- Phép thay thế tăng độ hỗn loạn. Phép hoán vị tăng độ khuếch tán
- Trước đây các trình duyệt có tạo API Crypto. Sau này được chuẩn hoá thì dùng SubtleCrypto
- Việc tạo ra hỗn loạn và khuếch tán giúp giảm khả năng bị dò ra khoá trong trường hợp một bản rõ đã bị lộ
- which are meant to be input by users and verified by matching, secret keys are usually read from storage and are an active part of an algorithm to decrypt the protected information.
- Véc tơ khởi tạo (iv) dùng để đảm bảo những bản rõ giống nhau không tạo ra bản mã giống nhau
- API đưa thông tin là thụ động. Webhook đưa thông tin chủ động
- Cloud bản chất là đi thuê local của người khác
- Cloud, webhook, API
- Endpoint
- GraphQL phù hợp cho app điện thoại, gRPC phù hợp khi cần tốc độ cao với ít tài nguyên
- Node là một vật thể có ID riêng. Edge là vật thể liên kết giữa các node. Field là thuộc tính của vật thể
- Node với edge được gọi chung là endpoint
- Tất cả web service là API, nhưng nó khác với web API của JS
- RESTful là REST không có hypermedia
-
Công cụ:
- Container chỉ là một process
- Container là phù du
- Docker Desktop tạo ra một máy ảo để chạy docker engine
- Docker
- Có vẻ như ngày xưa engine với daemon là một
- Engine bao gồm CLI client, API và deamon
- exec để chạy lệnh cho một container đang chạy
- Image là template để chạy container
- Mỗi một dòng trong dockerfile sẽ tương ứng với một step khi dựng image
- Nếu dựng lại image mà đánh tag giống nhau thì image cũ sẽ thành dangling image
- Việc dựng image được thiết lập qua dockerfile
- Volume là cách để đồng bộ dữ liệu giữa máy chủ và máy ảo
- Bấm dấu . để mở VS Code bản web ngay trên GitHub
- Bấm F12 để biết thêm thông tin về biến
- Các biểu tượng dùng trong VS Code
- Dùng snippet để viết tắt code
- Hằng là xanh lợt, biến là xanh đậm
- Giao diện VS Code
- Language server là thứ khiến cho IDE hỗ trợ tốt hơn việc lập trình
- launch.json dùng để thiết lập debugger
- Nhiều người có thể cùng chỉnh sửa cùng lúc như Google Docs
- Phím tắt trong VS Code
- Plugin hay cho người mới
- setting.json giúp tuỳ chỉnh thiết lập theo ý mình
- Video hướng dẫn
- Vim
- VS Code chỉ là code editor, không phải IDE
- VS Code nhiều khi không tìm hết file được do tên quá dài
- Đường dẫn trong launch.json là cwd
- Debugger
- Dùng logpoint thay cho console.log() khi debug
- Launch vs attach
- Không cần viết hàm quản lý debug khi đã có logpoint
- Dùng test khi muốn biết code chạy có đúng không. Dùng debug khi muốn biết code chạy sai chỗ nào
- Dễ xem kết quả các giá trị trong console debug hơn là ở Variables
- Log, test, debug
- console.log chỉ hiển thị nội dung tại thời điểm vật thể được xem, chứ không phải vào lúc lệnh được thực thi
- defaultTextFormatter và ansiColorFormatter không dành cho console
- Log
- Ngoài console.log còn nhiều loại log khác
- Cấp độ log DEBUG hoặc TRACE hiển thị ở console.log trên môi trường local, WARN hoặc INFO ở các công cụ quản lí log, FATAL hoặc ERROR đến một kênh mà dev có thể nhận ra và xử lí kịp thời
- Lý do thấy test trước bất tiện
- Tổng quan về kiểm thử phần mềm
- Test trong VS Code
- Unit test
- Prettier là để làm cho dễ nhìn. Linter là để hạn chế dính bug khi dự án mở rộng
-
Hệ điều hành, path và terminal:
- Biến môi trường giúp ta điền những giá trị lặp đi lặp lại nhanh hơn
- env của người dùng được ưu tiên hơn env của hệ thống. Nhưng với biến path thì ngược lại
- PATH là đường dẫn mặc định tới những tập tin nhị phân (binary)
- Chương trình = Cấu trúc dữ liệu + thuật toán
- Chương trình là một đoạn mã được lưu trên ổ đĩa. Tiến trình là khi đoạn mã đó được nạp vào RAM và được CPU đọc
- Các process monitor giúp theo dõi mức độ tiêu thụ tài nguyên của các tiến trình
- CPU Usage precise cho biết how much CPU time each thread consumes, and what the call stack looked like when a thread lost or gained the CPU. CPU Usage sampled cho biết what a thread is doing between context switches
- DWM becomes active whenever Windows detects that a program has hung – DWM takes over window management so that the user can still move the hung window around.
- CUDA giúp phần mềm nghĩ rằng tất cả phần cứng đều giống nhau, và làm phần cứng nghĩ rằng tất cả phần mềm đều giống nhau
- High CPU usage từ tiến trình System thường là từ driver của phần cứng
- MBR chỉ được chứa tối đa 4 phân vùng chính. Các phân vùng còn lại phải là logical
- Lệnh con thì không có gạch. Cờ thì có gạch
- -contains là giống hoàn toàn. -match mới là giống một nửa
- cmd vẫn được dùng để chạy exe
- Các lệnh PowerShell thường dùng
- cmdlet dùng định dạng Verb-Noun
- Dùng toán tử hay hơn dùng phương thức ở chỗ nếu toán hạng là một mảng thì nó sẽ lọc mảng đó luôn
- Dùng Where-Object nhanh hơn dùng -Filter
- PowerShell là một ngôn ngữ shell
- Khi nhận dữ liệu, PowerShell mặc định giải mã ký tự bằng OEM chứ không phải UTF-8
- powershell.exe, PowerShell 5, Windows PowerShell là một. pwsh.exe, PowerShell 6, PowerShell Core là một
- Profile
- Windows Terminal có thể được kích hoạt trong Explorer
- Shell là cái vỏ bảo vệ nhân của hệ điều hành
- Terminal là cái chương trình để làm việc với shell
- Terminal, console, shell và command line thường được dùng lẫn lộn với nhau
- Các chương trình trên Linux hướng đến việc làm tốt đúng một nhiệm vụ duy nhất, và làm tốt việc làm cùng nhau
- Dùng chương trình Linux cho người không biết gì về nó
- Nên cài Linux hay dùng WSL
- Cách các đường dẫn ở những nơi khác nhau xử lý dấu cách và ký tự phi ASCII
- Hệ điều hành trông như có vẻ dùng được đường dẫn Unicode, nhưng thực ra chúng chỉ là ASCII
- Những chương trình cũ sẽ dễ gặp vấn đề về dấu cách hơn những chương trình mới
- pwd là thư mục mà tiến trình sẽ chạy. cwd là thư mục mà mình đang ở đó
- Sự khác biệt giữa Windows và Android, Mac trong tên file
- Việc có khoảng trắng trong tên file sẽ khiến việc xử lý code phức tạp hơn
- Đường dẫn đến tệp ngoài trong một script phụ thuộc vào cwd, không phải đường dẫn tới script mình đang viết
- Dùng absolute path cho lành
- Các lệnh để chạy khi cài win mới
- Local app data
- Windows không ship phiên bản dotnet Core mới nhất để tránh việc dotnet phải hỗ trợ phiên bản Windows đó cho tới khi nào phiên bản đó bị chính thức ngừng hỗ trợ
- Windows rất lằng nhằng trong việc thiết lập cấu hình
-
Khái niệm cơ bản và nguyên lý lập trình:
- 4 đặc điểm của lập trình hướng vật thể
- Biến là dữ liệu, hàm là thuật toán. Biến là danh từ, hàm là động từ
- Biểu thức (expression) là những thứ trả lại một giá trị nào đó
- Hoạt động trung tâm của lập trình hướng vật thể là phân loại
- Callback là những hàm được dùng như đối số của hàm khác và đã xác định sẵn đối số truyền vào cho nó rồi
- f(a)(b) để gọi hàm f(a) có chứa hàm con f1(b)
- Giao diện là cái khuôn của phương thức
- Hàm cũng là vật thể
- Hàm vô danh, hàm mũi tên, lambda là những cái tên khác nhau cho cùng một thứ
- Việc tách một khối code thành một hàm khiến cho việc đọc từng dòng trở thành đọc từng bước
- Ý tưởng của lập trình hướng vật thể là gom nhiều hàm và dữ liệu vào trong một đơn vị gọi là vật thể
- Để tránh phụ thuộc lòng vòng (circular dependency) có thể dùng hàm
- Map, dictionary, associative array, hash, hash table là những cái tên cho cùng một thứ
- Nên để dư một dấu phẩy ở phần tử cuối cùng khi tạo vật thể hoặc mảng
- API là giao diện của một chương trình
- Giao diện là cách để sử dụng vật thể mà không cần biết bên trong nó có gì
- Khi import một hàm thì cả file chứa hàm đó sẽ được chạy. Các import của file đó cũng sẽ chạy theo, dù là để import vào một hàm khác mình không import
- Nên tách bạch code hỗ trợ cho client và server vào những mô đun khác nhau
- Package và library là những cái tên khác nhau cho cùng một thứ
- Việc dùng export chính là đang tạo API. API là các vật thể được export
- Việc hiển thị nội dung dữ liệu như thế nào là do công cụ quyết định, không phải ngôn ngữ quyết định
- Chưa rõ lý do vì sao lại dịch object ra thành đối tượng chứ không phải vật thể
- Dùng lớp khi ta có logic nghiệp vụ thực sự cần được thực thi. Dùng giao diện để tạo ràng buộc kiểu cho biến
- Không cần biết vật thể chứa dữ liệu gì, chỉ cần quan tâm nó làm được gì
- Lớp là một cái khuôn để tạo các vật thể cho nhanh
- Mảng giống vật thể nhưng tất cả các thuộc tính đều là số. Từ điển giống vật thể nhưng tất cả các thuộc tính đều là chuỗi
- Những vật thể đơn giản dùng để tra cứu dữ liệu theo từ khoá gọi là từ điển
- Từ điển là vật thể được dùng để tra cứu dữ liệu theo từ khoá chứ không phải là để thao tác và thay đổi thuộc tính bằng phương thức
- Các vật thể tương tác với nhau qua phương thức và không trực tiếp làm thay đổi giá trị của nhau
- Phương thức cho ta biết mình có thể làm gì với vật thể
- Phương thức là một thuộc tính của vật thể
- Phương thức phải gắn lên một vật thể cụ thể nào đó để có tác dụng
- this, self là cách để nói rằng hành động mà phương thức sẽ làm sẽ phải gắn lên một vật thể cụ thể của lớp, thứ mà bây giờ chưa được tạo ra
- Thay vì ta thao túng trực tiếp dữ liệu, ta điều khiển vật thể qua phần giao tiếp của nó với bên ngoài
- Thuộc tính nguyên thủy là những thuộc tính có sẵn mình không cần tạo
- Việc đóng gói (encapsulation) giúp ta không cần quan tâm vật thể lưu dữ liệu thế nào, mà chỉ cần quan tâm tới thuộc tính và phương thức của nó
- Vật thể là dạng dữ liệu có những thuộc tính thành phần
- Vật thể ngoài tự nhiên không chứa hướng dẫn để sử dụng nó. Vật thể trong máy tính có hướng dẫn sử dụng nó
- Kiểu động là kiểu được kiểm tra vào lúc chạy. Kiểu tĩnh là kiểu được kiểm tra lúc biên dịch (trước lúc chạy)
- Compile time là lúc chuyển từ ngôn ngữ lập trình mà người hiểu sang ngôn ngữ máy chỉ có máy mới hiểu. Runtime là lúc máy chạy mã máy
- Lỗi runtime là lỗi logic, khi chạy mới thấy. Lỗi compile time là lỗi cú pháp, khi biên dịch là thấy ngay
- Kiểu động làm cho việc học lập trình dễ hơn. Kiểu yếu giúp ngôn ngữ được tự do ép kiểu để đoán ý người dùng dễ hơn
- Runtime là lúc chạy, runtime environment là môi trường thực thi. Nhưng nhiều lúc runtime environment được gọi tắt là runtime
- Code giống như các nốt nhạc, động cơ giống như nhạc công, còn môi trường thực thi giống như nhạc cụ
- Ngôn ngữ và động cơ thường trùng tên
- Sự xuất hiện của language server giúp ta có thể bắt kiểu trước cả lúc biên dịch cho những ngôn ngữ chỉ bắt kiểu lúc chạy
- Thường mọi người dùng compile time đồng nghĩa với devtime
- Thời điểm xét kiểu quyết định độ động tĩnh của nó. Cách kiểu được xét quyết định độ mạnh yếu của nó
- Khái niệm cơ bản và nguyên lý lập trình
- Bộ nguyên lý SOLID giúp phần mềm dễ bảo trì, dễ mở rộng
- Cái trừu tượng không nên phụ thuộc vào những cái cụ thể mà những cái cụ thể nên phụ thuộc vào cái trừu tượng
- Mảng các vật thể và mảng các mảng
- Mặc dù mảng lưu giữ thứ tự, nhưng nhiều khi ta không quan tâm đến thứ tự đó cho lắm
- Dạng vật thể thường là tiện cho người, dạng mảng thường là tiện cho máy
- Việc biến đổi dữ liệu chủ yếu là để người dùng đọc cho tiện, và để máy kiểm tra dữ liệu
- API ổn định khác với API sẵn sàng cho việc tạo sản phẩm
- Giao diện lập trình (programing interface) khác với giao diện người dùng (user interface)
- Giao diện nhấn mạnh vào mô hình dữ liệu, còn giao thức nhấn mạnh vào các quy tắc và thủ tục trong quá trình truyền và trao đổi dữ liệu
- Giao diện và giao thức đều là những thứ các bên cần tuân thủ để sự giao tiếp được diễn ra, nhưng giao diện nhấn mạnh vào mô hình dữ liệu, còn giao thức nhấn mạnh vào các quy tắc và thủ tục trong quá trình truyền và trao đổi dữ liệu
- Mẫu thiết kế (design pattern) là những giải pháp cho những vấn đề thường gặp trong lập trình mà nhiều thế hệ lập trình viên đã đúc kết và chứng minh tính hiệu quả của nó
- Người mới lập trình thường hỏi nên dùng cú pháp, thư viện, hay ngôn ngữ nào. Lập trình viên nhiều kinh nghiệm thường tập trung vào các khái niệm trừu tượng
- Nguyên lý
- Singleton hay được dùng trong các trình quản lý plugin
- Quy trình viết tài liệu
- Model không biết đến View, View không biết đến Controller
- Giao diện người dùng, logic, dữ liệu là 3 thành phần cơ bản cho một chương trình. Chúng có mục tiêu khác nhau, kỹ thuật xử lý khác nhau. Không thể trộn lẫn lộn với nhau được.
- while familiarity is a perfectly fine reason, it is really a bad sign if it is the only reason
- Các lý do làm tăng cyclomatic complexity
- Cyclomatic complexity đánh giá độ phức tạp khi viết kiểm thử. Cognitive complexity đánh giá độ phức tạp trong việc đọc
- Có những đoạn code có cùng cyclomatic complexity nhưng lại khác cognitive complexity
- Mỗi đường cơ sở trong biểu đồ dòng tương ứng với một testcase
- Thay vì dùng số nút và cạnh để tính độ phức tạp chu trình, hãy đếm số miền bị chia ra
- Sự couple dễ được sinh ra khi muốn xử lý các dữ liệu giống nhau về chức năng và na ná nhau về cấu trúc và cách xử lý
- Mỗi lớp, hàm, mô đun chỉ đảm nhiệm một nhiệm vụ xác định
- Việc chia các lệnh trong kịch bản thành các hàm nhỏ hơn sẽ giúp dễ bắt lỗi hơn
- Tránh dùng hàm lồng để làm giảm sự couple
- Đường cú pháp là những loại cú pháp giúp việc đọc dễ dàng hơn. Muối cú pháp là những loại cú pháp giúp việc viết sai trở nên khó khăn hơn
- Bản thân việc lập trình bằng ngôn ngữ bậc cao đã là một dạng comment
- Comment có thể cho thông tin sai, nhưng code thì không
- Block comment dành cho việc giải thích ý tưởng của code, viết doc. Line comment để debug hoặc hướng dẫn editor đọc code của mình (directive)
- Comment cũng có bug, nhưng không giống như code, không có chương trình nào hỗ trợ debug được nó
- Hãy viết code sao cho mình khỏi comment
- Quy ước đặt tên biến
- Thay vì comment, hãy document. Thay vì giải thích cách code hoạt động, hãy hướng dẫn cách sử dụng nó
- Việc đặt tên không có tiền tố gì sẽ tiện khi nó thường được dùng thường xuyên ở những nơi khác, ở trong một danh sách, hoặc khi dùng để liệt kê các thuộc tính
- Đặt tên biến, viết comment
- Nên dùng comment để giải thích về thuật toán, các đánh đổi trong việc ra quyết định hoặc dẫn nguồn
-
Ngôn ngữ:
- Các ký tự đặc biệt trong các ngôn ngữ khác nhau
- AutoHotkey combines 3 concepts into 1 built-in basic object type
- AutoHotKey
- Dùng sleep ở đầu loop tốt hơn là ở cuối loop
- cargo giống npm hay pip
- Crate là file, package là tập hợp nhiều crate
- Mỗi lần refactor là một cực hình
- Rust phù hợp khi code đã ổn định rồi
- Rust
- Viết chương trình bằng Rust giống như sống trong mối quan hệ bạo hành
- Bundler dùng để gom hết tất cả các script lại vào làm một
- Cái tên ECMAScript là để tránh bị Oracle kiện
- Biến được so sánh với nhau bằng địa chỉ bộ nhớ, không phải giá trị thực sự của biến
- await với async là cách để viết hàm bất đồng bộ với tư duy khi viết hàm tuần tự
- Dùng await trong filter sẽ chẳng filter được gì
- Nếu không dùng hàm bất đồng bộ để gọi tiến trình khác, thì JS sẽ tiếp tục chạy các lệnh sau đó mà không chờ tiến trình chạy xong
- Chạy nhiều promise song song và tuần tự
- Khi resolve được gọi, vật thể promise sẽ cập nhật kết quả trả về từ resolve, và hàm được dùng làm đối số đầu tiên của then sẽ được chạy
- resolve, reject là hai hàm được JS cung cấp sẵn để làm đối số cho hàm thực thi
- Đối số của Promise là một hàm. Nó được gọi là hàm thực thi (executor)
- Promise chỉ là một vật thể để việc lập trình được tiện hơn, không phải là một tính năng mà những phiên bản JS trước không làm được
- Promise được sinh ra là để không phải dùng if lồng quá nhiều
- Promise
- Nếu có nhiều then nối với nhau là bởi vì trong promise có promise khác
- Hàm được dùng làm đối số đầu tiên của then sẽ chạy khi hàm resolve được gọi. Hàm được dùng làm đối số thứ hai của then sẽ chạy khi hàm reject được gọi
- Kết quả của promise chỉ có thể được lấy ở trong then, và phải ở dạng hàm
- Để lấy được giá trị state và result của promise, cần dùng các phương thức then và catch
- Vật thể promise có 2 thuộc tính là state và result, và 3 phương thức là then, catch, và finally
- Sự bất đồng bộ có tính lây lan. Bất kỳ hàm nào gọi hàm bất đồng bộ đều trở thành hàm bất đồng bộ
- Biến được tạo mà không có từ khoá khai báo (var, let, const) luôn là biến toàn cục, kể cả khi được tạo trong hàm
- JSON.stringify(new Error()) trả về một vật thể rỗng
- MBR dùng cho BIOS, GPT dùng cho UEFI
- Number(undefined) === NaN. Number(null) === 0
- object Object xảy ra khi một vật thể bị chuyển sang dạng chuỗi
- String(x) giống x.tostring(), nhưng không gây ra lỗi nếu x là null hoặc undefined
- URL.toString() hoặc URL.href() sẽ luôn thêm dấu chéo vào sau
- Dùng export default cho lớp, hàm của component, và export thường cho những thứ còn lại
- Có 2 loại kiểu - kiểu nguyên thuỷ và kiểu tham chiếu
- Khi một hàm được gọi với từ khoá new, nó sẽ được dùng như một constructor
- Dùng null khi chắc chắn là người dùng chắc chắn nói là không có giá trị cho việc đó. Còn lại dùng undefined
- Dùng nullish coalescing operator thay cho toán tử OR khi 0, ‘’, NaN cần được trả về true chứ không phải false
- Luôn dùng ===. Nếu không có lý do hợp lý thì đừng dùng ==
- Mọi phép so sánh với NaN đều trả về false
- typeof NaN === number
- Đáng lẽ typeof null phải là ‘null’. Nhưng nó lại trả về là ‘object’ vì đây là một bug lúc JS mới được viết, và việc sửa nó sẽ làm hỏng nhiều script
- Vì JS bắt cả lỗi đoán được và không bắt được, nên khi xử lý lỗi thì tốt nhất là trả về một kết quả
- Mọi sự kiện đều capture và target, nhưng không phải sự kiện nào cũng bubble
- Sự kiện
- Các hàm thường dùng cho mảng
- Dùng dấu cách cho tên thuộc tính cũng được, nhưng lúc destructure thì phải gõ nhiều sẽ mệt. Tốt nhất là không dùng dấu cách rồi lúc hiển thị viết lại cho đẹp
- value, writable, enumerable, configurable là các thuộc tính của các thuộc tính
- Nếu cần tạo một mảng mới từ mảng cũ thì dùng map() tiện hơn dùng for
- for…in chỉ lấy vị trí trong mảng. for…of lấy giá trị ở vị trí đó
- Các chương trình dùng Electron ngốn RAM
- deno info giúp thấy chỗ script được chuyển sang JS
- Deno đã loại bỏ bundler vì sự khác biệt giữa mong đợi của người dùng và của Deno
- Nếu không chỉ định phiên bản mô đun thì thỉnh thoảng phải xoá cache để đảm bảo lấy được phiên bản mới nhất
- Dùng Array.fromAsync để việc lấy dữ liệu từ KV không phải chờ tải về hết rồi mới bắt đầu lọc
- Sau một thập kỷ phát triển, tác giả của Node đã viết Deno để khắc phục những thiếu sót của Node
- Thay vì phải tìm hiểu về awesome JS, có thể xem các thư viện std
- Cứ 4kb thì tạo thành một read unit, chứ không phải là một lần chạy lệnh
- Những hàm của môi trường thực thi không chạy được trên trình duyệt
- Trong JavaScript, khi nói đến runtime thường mọi người chỉ nghĩ đến Node hoặc Deno, và đối lập với trình duyệt. Dù tất cả đều không phải là runtime mà là runtime environment
- Vì Node, Deno viết trên V8 chứ không phải Gecko, nên chỉ có Chrome mới debug được chứ Firefox thì không
- Web API là những API được trình duyệt cung cấp, không phải của động cơ
- Cần thiết lập esm cho Node trước khi chạy
- npx là một gói mở rộng của npm giúp việc cài đặt dễ dàng hơn
- package.json dùng để thiết lập Node.js
- npm, pnpm, yarn là các chương trình quản lý package cho Node
- Node với Deno là những môi trường thực thi của JavaScript
- Namespace thực ra chỉ là các mô đun có sẵn
- Lịch sử phát triển của JavaScript
- strict mode là chế độ code nghiêm ngặt, bắt buộc lập trình viên phải tuân thủ theo quy tắc mà JS đưa ra
- esbuild
- VanillaJS chỉ là JS bình thường
- Các quy chuẩn thời gian trong ISO và RFC
- Giờ UTC là giờ luôn giống nhau ở bất cứ nơi đâu. Nó là phiên bản sau của giờ GMT
- Temporal được sinh ra để giải quyết các rắc rối của Date
- Instant nhấn mạnh về thời điểm. ZonedDateTime nhấn mạnh về vị trí địa lý
- Đa số code ở backend thì chỉ cần thời gian ở định dạng ISO, nhưng code ở frontend thì cần ở định dạng địa phương
- Request.json() và Response.json() tương đương với JSON.parse(). Việc không dùng nó tương đương với việc dùng JSON.string()
- Buffer và stream
- as, is là những cách để nói cho TS biết là mình hiểu nhiều hơn nó
- Chỉ thị ba dấu gạch chéo cung cấp chỉ dẫn cho TS
- Branding là một thủ thuật để tạo kiểu cho kiểu
- generic là biến dành cho kiểu
- generic là cách để giữ được tính chung chung mà vẫn không bị mất thông tin
- generic là tính từ, không phải danh từ
- Các ký hiệu trong TS
- Index signature và record là các cách khai báo kiểu vật thể
- Index signature giúp khai báo kiểu của tên thuộc tính và giá trị của nó trong vật thể, dù không biết vật thể đó có cấu trúc thế nào
- Nếu một thứ kêu như con vịt và đi như con vịt, thì nó là con vịt
- Nếu dữ liệu không nhất thiết ở dạng vật thể thì type gọn hơn và linh hoạt hơn. Nếu đã xác định dữ liệu cần ở dạng vật thể thì interface sẽ thể hiện tốt ý tưởng của người viết hơn
- satisfied là để kiểm tra xem dữ liệu mình nhập bằng tay có thoả kiểu hay không
- dts hoặc siroc dùng để khởi tạo dự án mà không tốn quá nhiều thời gian config
- Dùng string-ts để bắt kiểu cho chuỗi được tốt hơn
- Dùng ts-reset để sửa những lỗi kỳ lạ của TS
- Người mới học TS thì nên cài extension Total TypeScript để bớt sợ
- Thay vì dùng Copilot để gợi ý code, có thể dùng 30 seconds of TypeScript
- TS chỉ có thể bắt lỗi kiểu dữ liệu trong lúc viết code. Zod giúp bắt lỗi kiểu do người dùng trả về
- tsconfig
- type-fest cung cấp thêm các kiểu cho TS
- DefinitelyTyped là nơi tổng hợp kiểu cho các thư viện viết thuận JS
- tsc là TypeScript compiler, là thứ dịch TypeScript sang JavaScript
- TypeScript
- void là kết quả của những hàm không trả kết quả nào
- TypeScript cung cấp kiểu cho JavaScript
- JS dùng {} cho vật thể, Python dùng nó cho từ điển và tập hợp
- JavaScript và Python là 2 ngôn ngữ điển hình cho việc dùng nguyên mẫu (prototype)
- Khác biệt giữa JS và Python
- Map trong JS tương đương với dictionary trong Python
- Trong REPL, gọi trực tiếp vật thể ra thì kết quả là repr(). Nếu dùng print thì kết quả là str()
- Nếu lớp không định nghĩa cả repr() và str() thì kết quả trả về có dạng main.Class_name object at 0x1025c4ed0
- repr() trả về mô tả chi tiết để người lập trình bảo trì và sửa lỗi. str() trả về mô tả đơn giản cho người dùng sử dụng
- Exception
- elif là để phân biệt else thuộc if nào
- Jupyter notebook giúp chạy lệnh theo từng ô kèm diễn giải
- Không thể thay đổi tuple một khi đã được tạo ra
- Conda là trình quản lý thư viện, không chỉ của Python mà còn của các ngôn ngữ khác
- venv chỉ tạo môi trường ảo cho phiên bản hiện tại. Miniconda tạo môi trường ảo cho nhiều phiên bản
- Anaconda giống như một fork Python có bổ sung thêm nhiều công cụ cho khoa học dữ liệu
- Với những người chỉ cần dùng Python để làm dữ liệu chứ không lập trình, chỉ cần cài Anaconda là đủ. Không cần và không nên cài Python riêng
- Khi chạy Python trong VS Code, thư mục được chạy không phải là thư mục chứa script
- Nên cài Python bằng bộ cài tải từ website nếu muốn lập trình
- pip là chương trình quản lý package của Python
- Tên mô đun Python sẽ được dùng làm identifier. Identifier không được có dấu cách
- venv tạo môi trường ảo để tránh trường hợp chồng chéo các gói và xung đột phiên bản giữa các thư viện
- Việc cài phiên bản mới không xoá phiên bản cũ đi khiến cho người mới hay bị lẫn lộn phiên bản
- py là chương trình hỗ trợ việc quản lý phiên bản trên Windows
- shell=True cần cho
- Tuple là mảng nhưng không thay đổi được số lượng phần tử
- Python
- init() chỉ tạo giá trị cho lớp. new() mới thực sự là hàm tạo
- IPython
- init.py nói cho Python biết folder chứa nó là một package
- Những phương thức có hai dấu gạch dưới hai bên được gọi là dunder (double underscore)
- Từ điển dùng để chứa và thao tác với dữ liệu, trong khi JSON về bản chất dùng để mã hóa và giải mã dữ liệu
- Trong JS, console.log() sẽ hiển thị toàn bộ nội dung vật thể mà không phải làm gì. Trong Python, print() sẽ chỉ hiển thị nội dung vật thể nếu str() đã được định nghĩa
- Ở JS, nếu một biến có giá trị là một chuỗi JSON thì nó sẽ được hiểu là vật thể. Ở Python, nó được hiểu là từ điển
- Các ngôn ngữ lập trình tiến hoá dần để trở thành Lisp
- Mọi ngôn ngữ bậc cao đều là đường cú pháp của hợp ngữ
- JavaScript cố gắng đoán ý định của người viết chứ không báo lỗi
- JS là lập trình dựa trên prototype, Java là lập trình dựa trên lớp
- JavaScript vốn được sinh ra để chạy trên trình duyệt và không được dùng để làm việc với lượng code lớn
- Python tách bạch từ điển và vật thể ngay từ đầu, còn JS mãi về sau mới có từ điển
- Python tập trung vào việc cung cấp một ngôn ngữ lập trình tổng quát, dễ đọc và dễ viết
- Nếu compiler không làm cho lập trình viên thấy rõ lỗi của họ là gì, thì đó là lỗi của Rust, không phải của họ
- Ngôn ngữ dựa trên lớp định nghĩa hàm dựng và các thuộc tính của lớp trước khi tạo vật thể. Ngôn ngữ dựa trên nguyên mẫu thì tạo vật thể trước rồi mới định nghĩa các thuộc tính của nó
- TypeScript là để thêm kiểu vào một ngôn ngữ từ đầu đã không muốn có kiểu. Rust được sinh ra với ý định có kiểu ngay từ đầu
- Ý đồ thiết kế
- Ngoài ngôn ngữ lập trình thì còn có ngôn ngữ đánh dấu và ngôn ngữ scripting, ngôn ngữ shell
-
Web:
- Component hàm không có trạng thái (stateless). Component lớp có trạng thái (stateful)
- Component là những hàm hoặc lớp trả về một khối JSX
- Dùng fetch dạng promise chứ đừng await trong component
- Không có async component vì hiệu suất quá tệ
- JSX là cách để viết JS như thể viết HTML
- key là một thuộc tính đặc biệt của vật thể props để việc render được hiệu quả hơn
- Phải viết JSX trong .jsx hoặc .tsx
- Props giúp việc thêm property cho DOM giống như thêm attribute cho HTML
- Props là đối số đầu tiên của hàm component, dùng để truyền giá trị các thuộc tính của nó
- Props là viết tắt của property, nghĩa gốc là tài sản. Tài sản của cha mẹ thì con dùng được, nhưng tài sản của con thì cha mẹ không đụng được
- Những hàm được export default và được viết hoa ký tự đầu tiên là component
- Render là quá trình chuyển đổi dữ liệu và code sang HTML
- Nếu truyền HTML làm giá trị biến thì cần dùng dangerouslySetInnerHTML, nếu không thì sẽ bị mã hoá hết
- Framework
- form
- Fresh dùng Preact cho UI
- Fresh và Astro đều cung cấp khả năng render island lần đầu tại server và những lần sau tại client
- Fresh đối với Preact cũng giống như Next.js đối với React. React với Preact cung cấp khả năng render (làm framework), còn Fresh hay Next xử lý những thứ còn lại (làm meta-framework)
- Lịch sử phát triển framework JavaScript
- JS là để tăng trải nghiệm người dùng. Framework là để tăng trải nghiệm lập trình viên
- Next.js, Remix, Gatsby là những framework mà chính React giới thiệu là nên dùng
- Preact chỉ là một thư viện render. Nó không có biết gì về server hay routing cả
- React nên được alias thành preact-compat
- React được sinh ra để làm việc với trạng thái
- Ở Preact, onInput sẽ kích hoạt ngay trong lúc nhập, còn onChange chỉ kích hoạt khi người dùng đổi focus
- Island với partial hydration là một
- Island là những component ở trong thư mục islands
- Các hàm được môi trường thực thi cung cấp không hoạt động được ở island
- Component nằm trong thư mục island sẽ được render lần đầu ở server, còn những lần sau đều ở client
- Khi một vật thể được đổ dữ liệu vào, nó được gọi là được tưới nước
- Mỗi khi state thay đổi thì islands được render lại
- State giúp cập nhật dữ liệu mà không cần tải lại trang
- Nói cho đến cùng thì trang web chỉ là form
- createContext() nằm ngoài global, useContext() nằm trong component
- Giá trị trả về của useContext() là giá trị được truyền vào thuộc tính value của provider
- useContext() là cách để không phải dùng Consumer
- Đối số của createContext() quyết định kiểu của value của Context.Provider
- Chính vì setState render lại cả component, nên với những file component muốn tách ra nhiều hàm độc lập, và state
- Các hàm set của hook sẽ kích hoạt việc render lại component nơi nó được khai báo
- Cách dùng useEffect với useState
- Dùng setState gọn hơn signal nếu không phải truyền setter qua nhiều hàm khác nhau
- Không dùng mảng hoặc vật thể trong setState được
- Phải viết hook trong component. Không viết trong loop hoặc if được
- Trong useEffect chỉ dùng được promise, không dùng async được
- useEffect được sinh ra là để side effect không tự động chạy mỗi khi component được render
- effect khác computed ở chỗ một cái có return, một cái không có return
- Signal chỉ render lại mỗi phần tử HTML chứa giá trị của nó
- Signal giúp giải quyết các vấn đề do useState hoặc Context tạo ra
- Route là code viết cho server. Island là code viết cho client
- Có một số hàm ở server sẽ không serialize được
- Khi có một yêu cầu tới một route, handler được gọi trước, sau đó tới component
- Kết quả được trả về ctx.render(arg) của handler sẽ được truyền lại vào props.data của component
- Nếu viết handler dưới dạng vật thể thì chỉ những phương thức là động từ HTTP mới được dùng. Nếu viết dưới dạng hàm thì cái hàm đó sẽ trở thành handler luôn
- Route cần có ít nhất một handler hoặc một component
- Route không bao giờ được gửi đến client. Island được chạy ở cả server và client
- Serialize là cách duy nhất để truyền dữ liệu từ server tới client và ngược lại
- So sánh Single Page App (SPA) vs Progressive Web App (PWA)
- UI là kết quả của state và data. State nằm ở client, data nằm ở server
- Ý nghĩa tên các thư mục trong một dự án web
- Render phía máy chủ nhanh và SEO tốt. Render phía người dùng phù hợp cho những ứng dụng cần tương tác nhiều
- Web
- Cache là dữ liệu đã được tải trước để giúp giảm thời gian tải trang
- CORS là để trình duyệt bảo vệ người dùng, không phải để bảo vệ máy chủ
- Nếu tạo CORS proxy thì chỉ trả về đúng HTML thôi, đừng xử lý gì trên đó hết
- Same-origin policy ngăn chặn việc script ở tab này điều khiển tab kia
- Cookie lưu thông tin cá nhân để server nhận dạng được ai với ai. Giống như bệnh viện dùng sổ khám bệnh để biết mình là ai và đã được điều trị thế nào
- Worker là một tính năng của trình duyệt
- DOM là kết quả của việc phân tích cú pháp một tài liệu HTML cộng với
- DOM property khác HTML attribute
- HTML parser, DOM parser, trình duyệt
- Nếu không có DOM, JS sẽ không có bất cứ mô hình hoặc ý niệm nào về trang web, tài liệu HTML, SVG và các thành phần khác
-
Ξ Nguồn và tài nguyên hỗ trợ: