Bỏ qua

is là để hàm kiểm tra ra boolean có thể dùng cho if

Giả sử ta có code sau:

interface Chó {
    sủa: 'gâu gâu'
} 
interface Mèo {
    kêu: 'meo meo'
} 
declare function lấyTênThú(): Chó | Mèo 

Ta tạo hàm kiểm tra xem một con thú có phải là chó hay không. Đây là một hàm boolean bình thường:

/** Nếu `thú.sủa === 'gâu gâu'` thì `return true`, tức là đây chính là chó. Còn nếu `thú.sủa === undefined` thì `return false`, tức là đây không phải là chó */
function làChó(thú: Chó | Mèo){
    return thú.sủa !== undefined;
}
const thú = lấyTênThú()
if (làChó(thú)) {
    thú.sủa    
} else {
    thú.kêu
}

Khi viết như này thì TS không tự hiểu được là ở block true thú chỉ có thể là Chó, còn ở block false thì chỉ có thể là Mèo:

(bị lỗi font, đừng để ý đến màu, mà hãy để ý đến gạch chân)

Lý do nó không hiểu được là vì nó chỉ biết hàm làChó() trả về true hoặc false, chứ không biết là trả về Chó hay Mèo:

Nhưng nếu ở hàm làChó() ta dùng thú is Chó như sau:

- function làChó(thú: Chó | Mèo){
+ function làChó(thú: Chó | Mèo): thú is Chó {

Thì nó sẽ biết là nếu trả về true, thì true đó phải được hiểu là Chó. Khi đó, trong if nó sẽ tự động nhận dạng được và sẽ tự động gợi ý được luôn:

Cái này gọi là type predicate hoặc là type guard.

as là để ép kiểu

satisfied là để kiểm tra xem dữ liệu mình nhập bằng tay có thoả kiểu hay không